Nhà máy điện hạt nhân được thiết kế theo những nguyên tắc nào để đảm bảo an toàn?
Do có rất nhiều chất phóng xạ nguy hiểm ở trong lò, nên lò phản ứng hạt nhân được thiết kế rất công phu, nhằm đảm bảo các chất nguy hiểm đó vẫn được “nhốt chặt” bên trong thiết bị, bên trong nhà máy và không thoát được ra bên ngoài, nếu xảy ra tai nạn.
Nguyên tắc quan trọng trước hết là không để xảy ra tai nạn. Để làm được điều này, điều chủ yếu là phòng chống tới mức tối đa những rủi ro có khả năng gây ra tai nạn như hỏng hóc hoặc hư hại máy móc, thiết bị.
Thiết kế đầy đủ, chính xác, thực hiện công tác quản lý chất lượng nghiêm ngặt và kiểm tra theo dõi thường xuyên để đề phòng những phát sinh bất thường và sai sót, hỏng hóc. Ở nhà máy điện hạt nhân, khi vận hành bình thường, thì hầu như không cần những thao tác trực tiếp của nhân viên, tình trạng các bộ phận của lò phản ứng được tổng hợp và hiển thị ở phòng điều khiển trung tâm, để các nhân viên vận hành có thể thường xuyên đánh giá tình trạng hoạt động của lò một cách chính xác. Hơn nữa, để tránh những thao tác sai hoặc nhầm lẫn gây ảnh hưởng lớn đến an toàn, lò phản ứng được thiết kế với hệ thống an toàn 2 lần (Fail Safe System), hệ thống khoá liên động (Interlock System).
Hệ thống an toàn 2 lần (Fail Safe System) là hệ thống được thiết kế dựa trên nguyên tắc, nếu một bộ phận của hệ thống gặp hỏng hóc, thì lập tức chuyển sang trạng thái an toàn. Ví dụ, khi mất điện, thì ngay lập tức thanh điều khiển được tự động đưa vào.
Hệ thống khoá liên động (Interlock System) là hệ thống được thiết kế để phòng chống trục trặc, sự cố phát sinh do thao tác nhầm lẫn, ví dụ như nhân viên vận hành nhầm lẫn định rút thanh điều khiển ra thì không thể rút được.
Điều quan trọng tiếp theo là nếu phát sinh trục trặc bất thường, thì cũng không để sự cố lan rộng. Người ta áp dụng những đối sách an toàn sau:
1. Thiết kế để có thể phát hiện sớm những bất thường:
Ở nhà máy điện hạt nhân, để có thể phát hiện và kiểm tra được những bất thường như trường hợp phát sinh rò rỉ từ hệ thống ống dẫn ngay khi mới phát sinh và ở mức độ nhỏ, người ta lắp đặt các thiết bị kiểm tra giám sát tự động và khi cần thiết sẽ áp dụng những biện pháp thích hợp như ngừng lò phản ứng.
2. Thiết kế để có thể ngừng lò khẩn cấp:
Khi phát hiện thấy có bất thường như áp lực trong lò phản ứng đột ngột tăng cao cần áp dụng biện pháp khẩn cấp, người ta lắp đặt các thiết bị phát hiện và thiết bị ngừng lò khẩn cấp để có thể cùng một lúc cho các thanh điều khiển vào lò phản ứng và ngừng tự động lò phản ứng. Các thiết bị quan trọng đó có đủ độ tin cậy, nhiều tầng và độc lập. Công phu tới mức lắp đặt cả thiết bị mà trong trường hợp hy hữu thanh điều khiển không hoạt động thì ngay lập tức một lượng lớn dung dịch axit boric có khả năng hấp thụ nơtron sẽ được rót vào để ngừng lò phản ứng.
3. Thiết kế phòng chống rò rỉ chất phóng xạ -“làm lạnh, nhốt chặt”:
Để đề phòng khả năng tai nạn như nước tải nhiệt sơ cấp bị tổn thất, mất mát thì người ta lắp đặt hệ thống thiết bị làm lạnh tâm lò phản ứng (vùng hoạt) khẩn cấp (ECCS: Emergency Core Cooling System) và thùng chứa lò phản ứng (Reactor Containment Vessel). Khi sự cố xảy ra, cùng với việc xả nước làm nguội lò phản ứng thì hệ thống phun hơi của thùng chứa lò sẽ làm lạnh và hoá lỏng hơi nước thoát ra thùng chứa lò, làm giảm áp lực trong thùng chứa lò và giảm thiểu nhanh chóng chất phóng xạ ở dạng khí.
Lượng khí còn lại sẽ nhờ hệ thống lọc khẩn cấp làm giảm chất phóng xạ. Dù trường hợp thế nào chăng nữa thì về cơ bản, các chất phóng xạ cũng được nhốt chặt bên trong thùng chứa lò phản ứng để không thoát ra bên ngoài.
Mức độ phóng xạ đến đâu thì được coi là an toàn?
1. Về mặt lịch sử
An toàn lò phản ứng thời kỳ đầu chắc chắn là chưa đầy đủ, nhiều sự cố phát sinh. Người ta đưa ra những đối sách và biện pháp sao cho những sự cố và tai nạn như vậy sẽ không xảy ra lần thứ hai, các thiết bị an toàn cũng được liên tiếp bổ sung. Trên 50% thiết bị lò phản ứng là những thiết bị an toàn, và chi phí đã tăng lên rất lớn. Nếu để cho an toàn hơn, thì chi phí sẽ phải cao hơn. Không có giới hạn. Vậy thì có thể lấy cân bằng giữa rủi ro và lợi ích ở đâu?
2. So sánh giữa tai nạn lò phản ứng với các tai nạn khác
Không có khả năng xác suất tử vong bằng 0 do tai nạn lò phản ứng. Với kiến thức hiện nay, thì liệu có thể cho phép ở mức độ thấp như thế nào? Nếu xác suất tai nạn hạt nhân bằng xác suất tai nạn máy bay, thì dĩ nhiên là không thể chấp nhận được. Trong cuộc sống thường ngày, chẳng ai nghĩ tới việc mình bị chết do thiên thạch rơi từ trên trời xuống, nên nếu xác suất tai nạn hạt nhân bằng xác suất thiên thạch rơi, thì phải chăng sẽ được chấp nhận?
3. Đánh giá về nguy cơ rủi ro theo lý thuyết xác suất
Phương pháp này đã được xác lập một cách đầy đủ. Nếu hiểu cặn kẽ về thiết kế hệ thống, thì sẽ tính toán được một cách dễ dàng xác suất hỏng hóc của hệ thống đó. Nếu giá trị tính toán mà thấp hơn chỉ số an toàn, thì ta có thể nói rằng hệ thống đó được thiết kế đủ an toàn.
4. Tính an toàn nội tại
Nếu hệ số độ phản ứng của lò là hệ số âm, thì mặc dù công suất có thay đổi, nhưng do sẽ tự nhiên trở về với giá trị ban đầu, nên lò phản ứng sẽ không hoạt động bất thường được. Tính chất này được gọi là tính an toàn nội tại.
Đối với hệ thống tải nhiệt bằng tuần hoàn cưỡng bức, nếu bơm hỏng, thì khả năng tải nhiệt sẽ giảm xuống. Còn đối với hệ thống tải nhiệt bằng tuần hoàn tự nhiên, thì do không lắp đặt bơm, nên có thể sẽ an toàn hơn. Đối với hệ thống tải nhiệt sử dụng nước, thì có thể hệ thống thụ động theo trọng lực an toàn hơn so với hệ thống dẫn nước bằng bơm.
Tính an toàn nội tại và nguyên tắc thụ động là những tiêu chuẩn đánh giá an toàn.
An toàn cho nhà máy điện hạt nhân được xác nhận như thế nào?
Do các tiêu chuẩn và hướng dẫn thẩm định đánh giá an toàn được quy định thành văn bản rõ ràng, nên nếu thực thi theo các tiêu chuẩn đó, ta có thể xác nhận được thiết kế có an toàn hay không.
Tiếp đến là các máy móc có được chế tạo đúng như thiết kế hay không? Hơn nữa, chúng có được lắp đặt theo đúng thiết kế tại đúng nơi hay không? Các máy móc đó có vận hành được theo chức năng như đã thiết kế hay không?
Do thực hiện rất nhiều khâu kiểm tra và chạy thử trong mỗi giai đoạn xây dựng, nên có thể xác nhận được tính an toàn của toàn bộ nhà máy.
Vì sao lại xảy ra tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân
Ngày 28/3/1979, tại tổ máy số 2 nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island (TMI) thuộc bang Pensylvennia đã xảy ra tai nạn làm chất phóng xạ thoát ra môi trường xung quanh, khiến một bộ phận dân cư phải đi lánh nạn. TMI-2 là công nghệ PWR với công suất 950MW.
Nguyên nhân của tai nạn này là do bơm cấp nước chính bị ngừng hoạt động. Thông thường thì bơm cấp nước phụ sẽ khởi động, nên không có vấn đề gì, nhưng khi đó van đầu ra của bơm cấp nước phụ lại đang bị đóng nên đã không thể phát huy được tác dụng. Ngoài ra, nhân viên vận hành lại ngừng hệ thống tải nhiệt tâm lò khẩn cấp (ECCS) đã bắt đầu vận hành tự động và van áp lực đáng lẽ cần phải được đóng khi áp lực lò phản ứng giảm lại ở trạng thái mở. Đó là một loạt các hỏng hóc của máy móc và thao tác sai chồng chéo lên nhau. Do đó, nước là chất tải nhiệt sơ cấp lò phản ứng bị giảm đi, bộ phận phía trên của tâm lò bị mất nước gây tổn thất nhiên liệu và làm chảy một phần cấu trúc bên trong lò.
Theo đánh giá, cư dân sống trong phạm vi 80 km từ nhà máy phải nhận tia phóng xạ ở mức độ 0,01mSv trên đầu người, nhưng cũng không đáng kể nếu so với lượng phóng xạ tự nhiên nhận trong 1 năm (2,4 mSv).
Nếu nhìn tai nạn này ở góc độ khác, thì có thể đánh giá như sau:
a) Sự khiếm khuyết của hệ thống quản lý
- Có thể đóng van áp lực bằng tay nhưng lại không đóng trong một thời gian khá lâu.
- Cho rằng có đủ nước trong lò.
- Ngừng sớm thiết bị làm mát tâm lò khẩn cấp.
b) Nhân viên vận hành vi phạm nguyên tắc
Vận hành khi vẫn đóng van đầu ra của bơm cấp nước phụ.
c) Khiếm khuyết trong thiết kế
- Van áp lực vẫn không được đóng lại khi áp lực giảm.
- Nước tràn ra từ bể chứa dịch thải của toà nhà phụ dẫn nước đọng bên trong thùng chứa lò và chảy xuống sàn.
Tại sao lại xảy ra tai nạn ở nhà máy điện hạt nhân
Ngày 26/4/1986, xảy ra tai nạn tại tổ máy số 4 nhà máy điện hạt nhân Chernobyl cách thủ đô Kiev nước cộng hoà Ucraina thuộc Liên Xô cũ khoảng 130 mét về phía bắc.
Lò phản ứng này có công suất 3200MW sử dụng than chì làm chất làm chậm và chất tải nhiệt là nước nhẹ. Đây là loại lò phản ứng đặc thù do Nga phát triển.
Tai nạn này xảy ra khi đang tiến hành thử nghiệm ngừng nguồn điện cung cấp từ bên ngoài, để xem với vòng quay quán tính của tua bin, máy phát điện sẽ thu được bao nhiêu điện năng.
Từ một loạt các sai sót, như việc nhân viên vận hành thao tác vi phạm nguyên tắc vận hành, làm cho thiết bị ngừng lò tự động không hoạt động, quá ưu tiên cho việc hoàn thành thử nghiệm, làm khác với kế hoạch, lò phản ứng chạy ở công suất thấp không ổn định, rồi vi phạm cả nguyên tắc về các thanh điều khiển. Do đó, công suất của lò phản ứng tăng lên nhanh chóng, nhiên liệu bị quá nhiệt, phát sinh hơi nước dữ dội, dẫn đến phá hỏng ống áp lực, một phần lò phản ứng và khu nhà lò.
Theo các nhà chức trách, có 31 người chết trong tai nạn này (trong đó, một người chết do bỏng khi đang dập lửa và một người khác bị mất tích) và 203 người nhập viện do bị nhiễm phóng xạ cấp tính. Do lò phản ứng và khu nhà bị phá hỏng, nên các chất phóng xạ bên trong lò phản ứng bị thoát ra ngoài. Ngay khi tai nạn xảy ra, khoảng 135.000 cư dân trong vòng bán kính 30 km từ nhà máy phải đi lánh nạn.
Người ta đánh giá lượng tia phóng xạ mà những cư dân này phải nhận là 16.000 sievert, nếu tính bình quân, thì mỗi người nhận là 120 mSv và cao hơn khoảng 50 lần so với lượng tia phóng xạ nhận từ tự nhiên (khoảng 2,4 mSv).
Chất phóng xạ vượt qua biên giới làm ô nhiễm một phạm vi rộng lớn, sang các nước Châu Âu tiếp giáp với Liên Xô cũ.
Nếu nhìn tai nạn này từ góc độ khác thì có thể đánh giá như sau:
a) Sự khiếm khuyết của hệ thống quản lý
- Lập kế hoạch thử nghiệm mà không có sự đồng ý của Uỷ ban Giám sát năng lượng nguyên tử quốc gia.
- Vì ưu tiên thử nghiệm nên trình tự thử nghiệm liên tiếp bị thay đổi do sự phán đoán của nhân viên vận hành .
b) Sự khiếm khuyết của chức năng đóng kín các chất phóng xạ
Không có vỏ lò phản ứng.
c) Vi phạm nguyên tắc vận hành, nhân viên vận hành thiếu kiến thức
- Ngắt thiết bị làm lạnh tâm lò khẩn cấp rồi vận hành.
- Thử nghiệp với công suất thấp hơn kế hoạch.
- Rút các thanh điều khiển trên mức quy định.
- Không để thiết bị ngừng tự động lò phản ứng hoạt động.
d) Khiếm khuyết quan trọng về mặt thiết kế
- Khi công suất thấp, lò vận hành không ổn định. Nếu công suất tăng lên một chút và lượng hơi nước tăng lên, công suất sẽ tăng lên nhanh chóng.
- Mất thời gian khi đưa các thanh điều khiển vào.
Tai nạn tới hạn JCO của Nhật Bản tại sao lại xảy ra?
Ở Nhật Bản, mặc dù đã áp dụng những biện pháp bảo đảm nghiêm ngặt về an toàn, thế nhưng tại sao lại xảy ra tai nạn tới hạn ở cơ sở gia công xử lý Uranium của công ty JCO tại Tokaimura?
1. Nơi xảy ra tai nạn không phải là nhà máy điện hạt nhân, mà là một cơ sở nhỏ thử nghiệm xử lý Uranium làm giàu cao.
2. Tai nạn xảy ra là lúc đang tiến hành xử lý Uranium làm giàu khoảng 20%, sử dụng cho lò phản ứng tái sinh nhanh. Đây là việc xử lý tạm thời trong thời gian từ 2 đến 3 năm một lần, do vậy có ít người có kinh nghiệm.(Khi độ làm giàu cao, thì khả năng xảy ra tai nạn tới hạn cũng lớn hơn).
3. Ở cơ sở này, độ lớn và hình dạng của các thùng chứa được thiết kế sao cho làm việc ở mức độ nào chăng nữa cũng không xảy ra tới hạn. Do vậy, nếu sử dụng các trang thiết bị này, thì tai nạn tới hạn sẽ không xảy ra.
4. Nếu sử dụng trang thiết bị an toàn này, thì thời gian xử lý sẽ lâu hơn. Công ty đã chạy theo công suất, bỏ qua các trang thiết bị này và sử dụng phương pháp xử lý đơn giản để rút ngắn thời gian làm việc (Vi phạm quy tắc).
5. Lãnh đạo công ty đã ngầm cho phép nhân viên của mình thực hiện công việc này (Vi phạm an toàn).
6. Cho một lượng lớn dung dịch Uranium làm giàu cao vào thùng chứa vượt quá dung lượng cho phép dẫn đến tai nạn tới hạn.
Bài học từ tai nạn này đã dạy cho chúng ta thêm một lần nữa về quan điểm ưu tiên an toàn và giáo dục an toàn thường xuyên quan trọng như thế nào.
Có tiêu chí nào để đánh giá mức độ của tai nạn nguyên tử không?
Sự cố, hỏng hóc trục trặc ở nhà máy điện hạt nhân (khác với tai nạn giao thông) mang tính chất kỹ thuật hay chuyên môn. Việc đánh giá mức độ sự cố khá phức tạp, dẫn đến những lo lắng không cần thiết.
Cơ quan năng lượng quốc tế (IAEA) đánh giá mức độ nghiêm trọng của tai nạn hạt nhân theo tiêu chuẩn INES (International Nuclear Event Scale) với 8 cấp (từ 0 đến 7).
Cấp 0: Sự kiện không ảnh hưởng gì về an toàn.
Cấp 1: Sự kiện bất thường gây ảnh hưởng đến công việc vận hành, nhưng không ảnh hưởng ở bên trong và bên ngoài cơ sở hạt nhân.
Cấp 2: Gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các biện pháp bảo đảm an toàn và nhân viên làm việc, nhưng không ảnh hưởng ra bên ngoài cơ sở hạt nhân.
Cấp 3: Là hiện tượng bất thường nghiêm trọng, có một lượng rất nhỏ chất phóng xạ thoát ra bên ngoài cơ sở hạt nhân. Ở bên trong cơ sở hạt nhân bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất phóng xạ, nhân viên tác nghiệp bị nhiễm chất xạ, xuất hiện những tổn thương cấp tính do tia phóng xạ.
Cấp 4: Là tai nạn không dẫn tới nguy cơ lớn đối với bên ngoài cơ sở hạt nhân, nhưng có một lượng nhỏ chất phóng xạ thoát ra bên ngoài cơ sở hạt nhân. Tâm lò phản ứng bị phá hỏng ở một mức độ nào đó, nhân viên bên trong cơ sở bị nhiễm một lượng tia phóng xạ lớn, dẫn đến tử vong.
Cấp 5: Là tai nạn dẫn đến nguy cơ lớn đối với môi trường bên ngoài cơ sở hạt nhân, một lượng giới hạn chất phóng xạ thoát ra bên ngoài cơ sở hạt nhân. Tâm lò phản ứng và tường chắn phóng xạ bị phá hỏng nghiêm trọng (tai nạn ở nhà máy điện hạt nhân
Cấp 6: Là tai nạn lớn. Có một lượng chất phóng xạ tương đối lớn thoát ra bên ngoài cơ sở hạt nhân.
Cấp 7: Là tai nạn nghiêm trọng. Một lượng chất phóng xạ lớn thoát ra bên ngoài cơ sở hạt nhân (tai nạn Chernobyl ở Liên Xô cũ, năm 1996).
Từ cấp 1 đến cấp 3 là sự cố hạt nhân, từ cấp 4 đến cấp 7 là tai nạn hạt nhân.
Tai nạn tới hạn ở Tokaimura xảy ra ngày 39/9/1999 là tai nạn cấp 4, nghĩa là cấp thấp nhất của tai nạn hạt nhân.
INES được sử dụng như một công cụ hữu hiệu cung cấp thông tin chính xác cho công chúng về mức độ nghiêm trọng của sự kiện hạt nhân. INES giúp cho công chúng, các phương tiện thông tin đại chúng hiểu một cách thống nhất về các sự kiện hạt nhân.
Hệ thống dịch vụ thông tin INES hiện có đại diện ở 60 quốc gia trên toàn thế giới.
Con người thường có những sai sót trong vận hành nhà máy điện hạt nhân. Có đối sách nào cho vấn đề này?
Năng lượng nguyên tử với những lĩnh vực ứng dụng rộng lớn của nó, từ việc tạo năng lượng, cho tới những ứng dụng của tia phóng xạ, tất cả đều được quy định chặt chẽ, thông qua các tiêu chuẩn và quy tắc nghiêm ngặt. Luật pháp quy định nghĩa vụ tuân thủ các tiêu chuẩn và quy tắc đó. Nhà nước lập ra các cơ quan và tổ chức để kiểm tra, giám định thường xuyên tình hình tuân thủ các tiêu chuẩn và quy tắc này. Đồng thời, phải thường xuyên tiến hành giáo dục an toàn đối với những nhân viên làm việc tại các cơ sở hạt nhân.
Dù vậy, con người vẫn có khả năng phạm lỗi. Gần đây, người ta áp dụng những đối sách tinh vi để phòng ngừa tối đa lỗi do con người, như bố trí lắp đặt các công tắc thao tác, màu sắc, hình dạng của công tắc, v.v..
Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến một vài sự cố và tai nạn hạt nhân, đó là nguyên nhân kỹ thuật và vấn đề con người. Về mặt kỹ thuật, các chuyên gia điện hạt nhân đã khẳng định sẽ không xảy ra tai nạn hạt nhân như kiểu Chernobyl. Vấn đề mấu chốt là xác lập hệ thống các quy tắc và duy trì trình độ chuyên môn để có thể tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn cũng như việc giáo dục cho các nhà quản lý, các nhân viên vận hành để họ gìn giữ và tuân thủ các quy tắc đó.
Kinh nghiệm vận hành lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt trong suốt 20 năm qua đã phản ánh trình độ cao của các cán bộ và nhân viên Việt Nam trong công việc vận hành, quản lý và bảo dưỡng lò phản ứng (mô hình thu nhỏ của nhà máy điện hạt nhân).
Trong khoảng 15 năm tới cho đến khi có điện hạt nhân, chúng ta cần phải sử dụng một cách hiệu quả quỹ thời gian này, học hỏi những thành công và thất bại của thế giới để có những kinh nghiệm và công nghệ kỹ thuật ưu việt nhất.
Rạn nứt do ăn mòn ứng suất (Stress Corrosion Cracking: SCC) là hiện tượng gì?
SCC là hiện tượng trong các cấu trúc như ống thép không gỉ có một số chỗ mà ứng suất tập trung bị suy giảm, ăn mòn và gây rạn nứt.
Thép không gỉ là hợp kim tạo thành từ sắt (Fe), Crôm (Cr) và Carbon (C), không bị gỉ và là vật liệu rất ưu việt, có độ cứng cao. Tuy nhiên, chỉ có một khuyết điểm là trong điều kiện nào đó sẽ gây ra SCC. Điều này dễ xảy ra ở những chỗ ứng suất dư, như xung quanh các mối hàn, hoặc ở những chỗ nước đọng. Rạn nứt phát sinh từ phía bên trong ống, đi qua cấu trúc các hạt kết tinh của thép rồi lan ra phía bên ngoài ống. Người ta cũng biết rắng, nếu hàm lượng carbon trong thép không gỉ thấp, thì SCC sẽ khó xảy ra hơn.
Những biện pháp nào được áp dụng để phòng chống hiện tượng SCC?
Người ta áp dụng một số biện pháp như sau:
1. Chế tạo vật liệu thép không gỉ có hàm lượng carbon thấp.
Ví dụ:
SUS 304 ® SUS 304L
SUS 316 ® SUS 316L
2. Giảm bớt tác động nhiệt khi hàn bằng cách thu hẹp chỗ hàn và dùng hàn tự động.
3. Hạn chế các chỗ nước đọng trong ống.
Điều gì sẽ xảy ra nếu máy bay dân dụng đâm vào nhà máy điện hạt nhân?
Nhà máy điện hạt nhân được xây dựng vô cùng chắc chắn, tâm lò phản ứng mang nhiên liệu hạt nhân được bảo vệ trong vỏ lò bằng thép dày 20cm. Thùng lò phản ứng còn được bao bọc bởi bức tường chắn tia phóng xạ bằng bê tông cốt thép dày tới 2 mét. Hơn nữa, ở phía bên ngoài còn có thùng chứa lò phản ứng.
Giả sử nhà máy điện hạt nhân bị tấn công bằng tên lửa, khi đó tên lửa có thể xuyên qua thùng chứa lò phản ứng nhưng không thể xuyên qua bức tường chắn tia phóng xạ dày 2 mét bằng bê tông cốt thép. Dù máy bay phản lực cỡ lớn rơi xuống nhà máy điện hạt nhân từ độ cao 10.000 mét cũng không thể phá hỏng thùng áp lực lò phản ứng. Tâm lò phản ứng rất vững chắc, nếu có thể giữ được chức năng làm lạnh tâm lò, thì sẽ không xảy ra thảm hoạ lớn làm chất phóng xạ thoát ra môi trường bên ngoài như tai nạn Chernobyl.
Có nghĩa là khi đó chức năng của nhà máy điện bị mất, nhưng hầu như không gây hại cho cư dân xung quanh.
Nếu máy bay hàng không dân dụng bị không tặc tấn công và sử dụng máy bay chứa đầy nhiên liệu để đâm vào nhà máy điện hạt nhân, thì sẽ ra sao? Về điều này, thì không thể trả lời được, do chẳng có ai ước tính và cũng không có phân tích gì. Có lẽ, nhà máy điện hạt nhân sẽ bị thiệt hại khá nhiều, nhưng chất phóng xạ phát tán có thể được khống chế và ngăn chặn lại trong phạm vi giới hạn nhỏ nhất.
Ai bồi thường những thiệt hại do nhà máy điện hạt nhân gây ra?
Giả sử xảy ra tai nạn như Chernobyl trong khi vận hành nhà máy điện hạt nhân và cư dân xung quanh chịu tổn hại. Khi đó thiệt hại sẽ do ai bồi thường? Thông thường thì công ty vận hành nhà máy điện đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Vì số tiền bồi thường rất lớn, nên công ty chịu trách nhiệm vận hành xây dựng ra một chế độ bảo hiểm mới gọi là “Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại năng lượng nguyên tử” và ký kết hợp đồng bảo hiểm đó. Ví dụ trong chế độ bảo hiểm của Nhật Bản, số tiền bảo hiểm lên tới 60 tỷ Yên. Trường hợp số tiền bồi thường vượt quá số tiền bảo hiểm, chính phủ sẽ giúp đỡ để bổ sung tiền bồi thường.
Do vậy, trước khi vận hành nhà máy điện hạt nhân cần xây dựng luật liên quan tới bồi thường thiệt hại năng lượng nguyên tử.
Iwakoshi